Bệnh bại liệt: Nguyên nhân, triệu chứng, biện pháp phòng ngừa và điều trị

Xuất bản: 2022-10-24

Bài viết được tham vấn y khoa bởi: Bác sĩ CKII Sản Trần Bích Ngọc

Bệnh bại liệt (Poliomyelitis) là một bệnh nhiễm vi rút cấp tính lây truyền theo đường tiêu hoá do vi rút Polio (Poliovirus) gây nên, có thể lan truyền thành dịch. Bệnh được nhận biết qua biểu hiện của hội chứng liệt mềm cấp (Acute Flaccid Paralysis: AFP).

1. Bệnh bại liệt là gì?

Bệnh bại liệt là một bệnh truyền nhiễm, gây ra do nhiễm virus Polio theo đường tiêu hóa, có thể bùng phát thành dịch. Triệu chứng bệnh bại liệt thường gặp là hội chứng liệt mềm cấp. Bệnh bại liệt có thể dự phòng được bằng cách tạo ra miễn dịch chủ động khi tiêm chủng vaccine bại liệt, nhờ đó mà tỷ lệ bệnh bại liệt ở trẻ em giảm đáng kể.

Trước đây, bệnh bại liệt xuất hiện và gây ra dịch ở hầu hết các châu lục. Số lượng người mắc bệnh và chết vì bệnh bại liệt tăng mạnh. Từ năm 1955-1960 khi vắc xin bất hoạt và vắc xin sống giảm độc lực ra đời tỷ lệ mắc và chết đã giảm đáng kể, đặc biệt ở các nước phát triển. 

Ở Việt Nam: trước khi có vắc xin đã xảy ra các dịch lớn vào năm 1957-1959. Tỷ lệ bại liệt năm 1959 là 126,4/100.000 dân, từ năm 1962 khi Việt Nam chế tạo thành công vắc xin bại liệt sống giảm độc lực Sabin (OPV) thì tỷ lệ mắc và tử vong đã giảm đáng kể cũng như không có các vụ dịch xảy ra. Sau thống nhất đất nước 1975, áp dụng có hiệu quả Chương trình tiêm chủng mở rộng đã giúp gần 100% trẻ em được uống vắc xin bại liệt. Đến năm 2000 Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố Việt Nam đã thành công trong việc thanh toán bệnh bại liệt trên toàn quốc, nghĩa là không còn một bệnh nhân nào mắc bệnh bại liệt do vi rút bại liệt hoang dại gây nên. Đây là một thành công to lớn của nền y tế nước nhà.

2. Nguyên nhân hình thành nên bệnh bại liệt

Virus polio là nguyên nhân gây bệnh, thuộc chi vi rút đường ruột (Enterovirus), thuộc họ Picornavirida, có hình khối cầu, không có vỏ, chứa ARN. Vi rút bại liệt Polio có 3 typ:

  • Typ I  : Giữ vai trò chính trong gây bệnh (90%) có tên gọi là Brunhilde.
  • Typ II : có tên gọi là Lansing.
  • Typ III: có tên gọi là Leon.

Vi rút bại liệt sống dai ở môi trường bên ngoài. Trong phân, chúng sống được nhiều tháng ở nhiệt độ 0 - 40 độ C. Trong nước, chúng sống được 2 tuần ở nhiệt độ thường. Vi rút bại liệt bị tiêu diệt ở nhiệt độ 560 độ C, sau 30 phút và bị tiêu diệt bởi thuốc tím. Liều clo trong nước sinh hoạt không tiêu diệt được vi rút bại liệt.

Vi rút Polio xâm nhập vào cơ thể người theo đường tiêu hóa, sau đó sẽ đến các hạch bạch huyết. Tại đây một số ít virus Polio xâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương gây tổn thương ở các tế bào sừng trước tủy sống và tế bào thần kinh vận động của vỏ não, gây nên hội chứng liệt mềm trên lâm sàng.

3. Triệu chứng của bệnh bại liệt

Triệu chứng bệnh bại liệt xuất hiện khác nhau phụ thuộc vào thể bệnh bại liệt. Bệnh bại liệt có thể biểu hiện các triệu chứng nhẹ nhàng trong thể bại liệt không điển hình không tổn thương hệ thần kinh trung ương, nhưng cũng có thể là rất nghiêm trọng trong thể liệt. Hầu hết các bệnh nhân bị nhiễm bệnh không biểu hiện triệu chứng. Bệnh bại liệt được chia làm ba thể:

  • Bại liệt thể nhẹ: các triệu chứng thường gặp nhất là những triệu chứng giống như các bệnh nhiễm trùng do virus khác gây ra, bao gồm: sốt cao, đau đầu, mất ngủ, rát cổ họng, buồn nôn và nôn mửa, táo bón hoặc tiêu chảy. Bệnh có thể hồi phục trong vài ngày.
  • Bại liệt thể không liệt: hay còn gọi là thể viêm màng não vô khuẩn, biểu hiện thường gặp nhất là đau đầu, cứng cổ, và thay đổi chức năng tâm thần.
  • Bại liệt thể liệt: triệu chứng phổ biến nhất là sốt và sau đó đau đầu, cứng cổ và lưng, táo bón và nhạy cảm khi bị chạm vào người. Bệnh nhân dần dần mất cảm giác và vận động ở phần dưới của cơ thể dẫn đến liệt không đối xứng. Sau đó bệnh nhân sẽ phục hồi dần trong vòng từ 2 đến 6 tháng. Trong các trường hợp nặng hơn, nếu liệt cả tủy sống và hành tủy có thể dẫn đến suy hô hấp và tử vong.

4. Đối tượng nguy cơ cao mắc bệnh

Có rất nhiều yếu tố có thể làm tăng nguy cơ bại liệt, bao gồm:

  • Đi đến vùng có virus bại liệt hoặc đang có dịch bại liệt ở đó.
  • Tiếp xúc với chất thải của người có mang virus bại liệt trong người.
  • Sử dụng nguồn nước ô nhiễm và ăn các loại thực phẩm bẩn.
  • Người có các yếu tố làm suy giảm miễn dịch, giảm sức đề kháng như: mắc bệnh suy giảm miễn dịch, đã bị cắt amidan trước đây, stress hoặc hoạt động cường độ nặng trong thời gian dài.

5. Một số biện pháp điều trị bệnh bại liệt

Bệnh bại liệt là bệnh lây nhiễm do vi rút nên hiện chưa có các biện pháp điều trị đặc hiệu. Điều trị bệnh bài liệt là điều trị nâng đỡ và điều trị triệu chứng:

  • Bất động hoàn toàn.
  • Tăng cường và nâng cao thể trạng bằng sinh tố và dịch truyền.
  • Hỗ trợ hô hấp, nếu có dấu hiệu của liệt tủy.
  • Phục hồi chức năng và khắc phục di chứng, cải thiện sức mạnh và phục hồi thể lực.
  • Thuốc: thuốc giảm đau như aspirin và nhóm thuốc kháng sinh nếu có bội nhiễm vi khuẩn được dùng theo chỉ định của bác sĩ.

6. Các biện pháp phòng ngừa bệnh 

Cục Y tế dự phòng - Bộ Y tế khuyến cáo mọi người nên thực hiện tốt những biện pháp dưới đây nhằm chủ động phòng, chống căn bệnh bại liệt:

  • Tiêm vắc xin bại liệt cho trẻ nhỏ dưới 5 tuổi ít nhất 3 lần dưới hướng dẫn của Bộ Y tế.
  • Cần nâng cao ý thức cộng đồng về việc giữ gìn vệ sinh nơi công cộng, bao gồm cả vệ sinh cá nhân và vệ sinh nguồn nước, thực phẩm;
  • Cần tạo dựng  thói quen vệ sinh các vật dụng, bề mặt, đồ chơi, bàn ghế, dụng cụ học tập, sàn nhà bằng xà phòng diệt khuẩn hoặc chất tẩy rửa;
  • Người chăm sóc trẻ cần thường xuyên làm sạch tay bằng xà phòng, đặc biệt là trong những lúc trước và sau khi cho trẻ ăn, sau khi đi vệ sinh;
  • Sử dụng những nguồn nước sạch, không phóng uế bừa bãi. Phân của trẻ em cũng cần phải được thu dọn, vứt đổ vào nhà vệ sinh và cọ rửa sạch sẽ;
  • Nếu trẻ em trong nhà hoặc tại trường học xuất hiện các triệu chứng như buồn nôn, sốt, cứng gáy, đau cơ bắp và các chi, liệt mềm cấp,... cần đưa trẻ đi khám và điều trị kịp thời tại bệnh viện hoặc các cơ sở y tế gần nhất.

Bệnh bại liệt vô cùng nguy hiểm bởi tính chất lây lan nhanh và nguy cơ gây liệt chi hoàn toàn, liệt nửa người, thậm chí còn dẫn tới tử vong. Nếu đang có băn khoăn về bệnh lý này, hãy liên hệ ngay đến các chuyên gia y tế để được giải đáp thắc mắc, phát hiện và điều trị bệnh lý kịp thời, tránh để lại những hệ lụy nghiêm trọng.

+

Tác giả: Khôi Nguyên

Đăng ký tư vấn

Tại sao nên chọn phòng khám Alo Xét Nghiệm

Chuyên sâu về tầm soát ung thư - Gen - Di truyền
Đội ngũ cố vấn là tiến sĩ, bác sĩ đầu ngành
Trang thiết bị Y tế hiện đại
Lấy mẫu xét nghiệm tại nhà nhanh chóng
Chi phí xét nghiệm hợp lý
Tư vấn và trả kết quả qua SMS, E-mail

Bệnh bỏng: Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và phương pháp điều trị

Bỏng là các thương tích của da hoặc các mô khác do tiếp xúc với nhiệt, bức xạ, hóa chất hoặc điện. Các biến chứng và các vấn đề liên quan bao gồm sốc giảm thể tích, tổn thương do hít, nhiễm trùng, sẹo và co thắt. Các phương pháp điều trị vết bỏng bao gồm các chất kháng khuẩn tại chỗ, làm sạch thường xuyên, nâng cao, và đôi khi ghép da..

03/11/2022 23:43

Bệnh bạch sản: Nguyên nhân, triệu chứng và phương pháp điều trị

Những mảng trắng xuất hiện trong niêm mạc miệng là dấu hiệu tổn thương của bệnh bạch sản niêm mạc miệng. Bệnh lý này là nguyên nhân gây nên nhiều biến chứng ảnh hưởng đến sức khỏe nghiêm trọng nhưng thường không gây đau đớn cho người bệnh.

09/10/2022 10:57

Bệnh Lao Xương: Nguyên nhân, dấu hiệu, biến chứng và phương pháp điều trị

Lao xương là bệnh lao thứ phát, thường do trực khuẩn lao từ phổi hoặc hạch, đi vào máu tới xương. Lao xương thường xuất hiện ở các xương xốp như: thân đốt sống, xương tụ cốt bàn tay và bàn chân.

24/10/2022 11:39

Bệnh bại liệt: Nguyên nhân, triệu chứng, biện pháp phòng ngừa và điều trị

Bệnh bại liệt (Poliomyelitis) là một bệnh nhiễm vi rút cấp tính lây truyền theo đường tiêu hoá do vi rút Polio (Poliovirus) gây nên, có thể lan truyền thành dịch. Bệnh được nhận biết qua biểu hiện của hội chứng liệt mềm cấp (Acute Flaccid Paralysis: AFP).

24/10/2022 11:36

Bệnh bạch biến: Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và điều trị

Bạch biến là một tổn thương mất tế bào sắc tố da dẫn đến vùng da bị giảm sắc tố với nhiều kích cỡ khác nhau. Nguyên nhân thường không rõ, nhưng các yếu tố di truyền và tự miễn là có thể liên quan. Chẩn đoán dựa vào khám tổn thương da.

06/10/2022 11:33