1. Tổng quan về bệnh còi xương
Còi xương (Rickets) là bệnh loạn dưỡng xương do thiếu vitamin D hoặc rối loạn chuyển hóa vitamin D trong cơ thể. Căn bệnh này thường gặp ở trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ trong độ tuổi từ 6 tháng đến 36 tháng tuổi.
Vitamin D là loại vitamin tan trong chất béo, có trong thức ăn từ các loại động vật như cá, gan, sữa, trứng,... Nó là một nhóm gồm từ D2- D7, trong đó D2 và D3 là 2 chất có hoạt tính mạnh nhất. Vitamin D đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình tạo xương đó là hỗ trợ tăng hấp thu canxi và photpho ở ruột, tăng tái hấp thu canxi ở thận, tham gia vào quá trình canxi hóa sụn tăng trưởng nên nó cực kỳ quan trọng trong sự phát triển hệ xương của trẻ. Khi cơ thể bị thiếu vitamin D, ruột không hấp thu đủ canxi và photpho làm canxi trong máu giảm, canxi trong xương bị huy động để ổn định nồng độ canxi trong máu dẫn tới bệnh còi xương, làm trẻ chậm lớn, chân vòng kiềng, chậm biết đi....
Vùng dịch tễ gay gặp trẻ em bị còi xương là vùng miền núi, nơi có nhiều sương mù, ít ánh nắng dẫn đến việc tổng hợp vitamin D bị thiếu, ảnh hưởng đến quá trình hấp thu và chuyển hóa của Canxi, Photpho, những nguyên liệu cần thiết tạo nên bộ khung xương.
Tuy nhiên trẻ em thành thị cũng có nguy cơ bị còi xương do trẻ được bao bọc quá kỹ trong nhà, không được tắm nắng thường xuyên dẫn đến việc thiếu tổng hợp vitamin D.
2. Nguyên nhân gây bệnh còi xương
Còi xương thường là do thiếu Vitamin hoặc canxi. Tuy nhiên đôi khi cũng có thể là do khiếm khuyết di truyền hoặc có liên quan đến một số tình trạng sức khỏe khác. Cụ thể các nguyên nhân gây bệnh này đó là:
2.1. Thiếu ánh sáng mặt trời
Do yếu tố địa lý, tình hình khí hậu, mùa đông, vùng núi có nhiều sương mù, nhà ở chật chội, ôi nhiễm môi trường hay phong tục tập quán kiêng cữ giữ trẻ trong nhà đều gây nên sự hạn chế về việc tiếp xúc da với ánh nắng mặt trời. Trong ánh nắng mặt trời có tia UV có thể giúp các tế bào da chuyển hóa các tiền chất vitamin từ trạng thái không hoạt động thành hoạt động. Do đó mà những người ít tiếp xúc với ánh nắng mặt trời sẽ có nguy cơ cao bị còi xương.
2.2. Thiếu vitamin D ở người mẹ trong thai kỳ
Thai nhi chủ yếu dựa vào lượng vitamin D dự trữ thu được qua nhau thai. Do đó, nếu người mẹ bị thiếu vitamin D, canxi trong thai kỳ thì dễ khiến trẻ bị còi xương sớm.
2.3. Do chế độ dinh dưỡng của trẻ
Trẻ nuôi bằng sữa bò dễ bị còi xương hơn so với nuôi bằng sữa mẹ dù hàm lượng vitamin D trong cả 2 loại này đều thấp (10- 20 đơn vị/100ml). Nguyên nhân là do vitamin D trong sữa mẹ dễ hấp thu hơn, tỷ lệ canxi/phospho thích hợp.
Tuy nhiên cũng không thể chỉ dựa vào mỗi nguồn sữa mẹ để phòng chống còi xương ở trẻ.Việc cho trẻ ăn bổ sung sớm mắm, muối, mì chính, bột khiến trẻ dễ bị còi xương vì trong nó chứa nhiều acid phytic làm giảm hấp thu vitamin D và canxi ở ruột.
2.4. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ
Trẻ sinh ra có cân nặng dưới 2500 mg hay bị còi xương do cơ thể không dự trữ đủ muối khoáng và vitamin D trong thời kỳ bào thai đồng thời hệ thống men tham gia chuyển hóa Vitamin D còn yếu
Trẻ bị suy dinh dưỡng thường hay bị rối loạn hấp thu các chất dinh dưỡng, kể cả vitamin D, canxi đồng thời thiếu hụt men tham gia vào quá trình chuyển hóa vitamin D
Mắc một số bệnh như tiêu chảy kéo dài, nhiễm ký sinh trùng đường ruột, viêm gan tắc mật,.... đều ảnh hưởng đến việc hấp thụ vitamin D dẫn tới dễ bị còi xương.
3. Dấu hiệu nhận biết bệnh còi xương
Dấu hiệu còi xương sớm ở trẻ là trẻ hay quấy khóc, nôn trớ, ra mồ hôi trộm, ngủ không yên giấc, rụng tóc sau đầu (vành khăn). Còn trẻ bị còi xương cấp có biểu hiện tiếng thở rít thanh quản, hay nôn, nấc khi ăn, cơn khóc lặng, có thể bị co giật do hạ canxi trong máu.
Còi xương thể bụ bẫm dấu hiệu tương tự với còi xương thông thường (bệnh còi xương thể bụ xảy ra ở trẻ có cân nặng tốt, thậm chí là thừa cân béo phì nhưng vẫn bị còi xương do thiếu vitamin D). Nếu không được điều trị kịp thời thì sau khoảng vài tuần, trẻ sẽ xuất hiện các triệu chứng ở xương. Tùy vào từng lứa tuổi mà các biểu hiện ở xương cũng sẽ khác nhau, cụ thể:
- Ở trẻ nhỏ: sờ vào sẽ thấy phần xương sọ mềm, đầu dễ bị méo mó do tư thế nằm, đầu bẹp về một bên hoặc về phía sau. Thóp rộng của trẻ chậm liền, bờ thóp mềm, đầu to có bướu, mọc răng chậm, răng mọc lộn xộn, men răng xấu.
- Ở trẻ lớn hơn: có sự biến đổi về xương ở lồng ngực, có chuỗi hạt sườn. Các xương ở chi xuất hiện vòng cổ tay và cổ chân. Các cơ nhão nên trẻ chậm biết lẫy, bò, ngồi, đứng và đi,... Nếu không điều trị kịp thời có thể để lại nhiều di chứng cho trẻ như: lồng ngực biến dạng, ngực dô ra phía trước như ngực gà, gù, chân tay cong, vòng kiềng, chân chữ bát, cột sống chẹo, khung chậu hẹp (ảnh hưởng tới chức năng sinh sản ở bé gái),... Ngoài ra, trẻ bị còi xương còn xanh xao, thiếu máu, hay bị viêm phổi và tái phát nhiều lần.
4. Đối tượng có nguy cơ mắc bệnh
Chứng còi xương rất phổ biến ở các nước đang phát triển bởi nơi đây vẫn còn thiếu sự chú trọng về chăm sóc chế độ dinh dưỡng cho trẻ.Trẻ nhỏ từ 6- 36 tháng có nguy cơ bị bệnh rất cao vì trẻ đang trong giai đoạn phát triển.Trẻ em sống trong khu vực ít ánh sáng mặt trời, ăn chay hoặc không uống sữa có thể không đủ lượng vitamin D cần thiết.
- Ngoài ra thì còn có một số yếu tố làm tăng nguy cơ còi xương như:
- Da đen (màu da này khiến việc sản xuất vitamin D ít đi).
- Mẹ bị thiếu hụt vitamin D trong khi mang thai.
- Sống ở nơi t ánh nắng mặt trời hạn chế.
- Trẻ bị sinh non.
- Sử dụng thuốc chống động kinh, thuốc kháng virus (những loại thuốc dùng trong điều trị HIV).
- Thiếu canxi.
- Người ăn chế độ ăn kiêng.
5. Biến chứng của bệnh còi xương
Bệnh còi xương ở giai đoạn đầu có thể gây đau xương, xương mềm, dễ gãy và tăng nguy cơ bị dị dạng. Ngoài ra thì việc nồng độ canxi trong máu ở mức thấp nghiêm trọng còn có thể dẫn đến chuột rút cơ bắp, co giật và một số vấn đề khác liên quan đến hô hấp.
Trong một số trường hợp nghiêm trọng, bệnh còi xương còn dẫn đến thiết chất dinh dưỡng và khoáng chất trong xương, dẫn đến một số biến chứng như:
- Dễ bị nứt vỡ hoặc gãy xương
- Xương không thể tái tạo nên sẽ mất xương vĩnh viễn
- Có vấn đề liên quan đến tim
- Co giật
- Viêm phổi
- Hạn chế sự phát triển về thể chất, trí tuệ và chiều cao của trẻ
- Cản trở các hoạt động thông thường hàng ngày
- Tăng nguy cơ bị tàn tật suốt đời.
6. Biện pháp chẩn đoán bệnh còi xương
Để chẩn đoán bệnh còi xương thì bác sĩ chủ yếu dựa vào thăm khám lâm sàng và chụp xquang xương để phát hiện các biểu hiện của bệnh cũng như các triệu chứng thần kinh đi kèm. Ngoài ra thì các xét nghiệm máu cũng có thể được chỉ định để đo các chỉ số Vitamin D, Canxi, Photpho nhằm đánh giá sự thiếu hụt, từ đó đưa ra định hướng điều trị phù hợp.
6.1. Chẩn đoán lâm sàng
Bác sĩ kiểm tra các triệu chứng như chân vòng kiềng hoặc hộp sọ mềm. Bên cạnh đó sẽ trao đổi về thói quen ăn uống, các hoạt động tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.
Quá trình thăm khám, bác sĩ có thể ấn nhẹ vào xương để kiểm tra như:
- Đầu: trẻ bị còi xương thường có xương sọ mềm và chậm phát triển ở điểm mềm trên sọ (thóp)
- Chân: ngay cả khi biết đi khỏe mạnh thì trẻ vẫn có thể bị chân vòng kiềng hoặc cong quá mức
- Ngực: ở một số trẻ bị còi xương sẽ có sự phát triển bất thường ở khung xương sườn như lồng ngực bẹp, xương ức nhô ra,...
- Cổ tay và cổ chân: to hơn so những đứa trẻ cùng trang lứa.
6.2. Chẩn đoán cận lâm sàng
- Xét nghiệm máu: xác định nồng độ canxi và phosphate là bao nhiêu
- Xét nghiệm động mạch: kiểm tra nồng độ axit trong máu
- Chụp X-quang: xác định tình trạng mất canxi trong xương hoặc sự thay đổi cấu trúc, hình dạng xương
- Sinh thiết xương: phương pháp này cho chẩn đoán bệnh chính xác nhưng hiếm khi được chỉ định.
7. Phương pháp điều trị bệnh còi xương
Để điều trị bệnh còi xương ở trẻ thì cần cho trẻ tắm nắng thường xuyên vào buổi sáng, khi ánh nắng mặt trời đang dịu nhẹ, không quá gắt như buổi trưa hay chiều. Bên cạnh đó cần bổ sung 400 UI Vitamin D2 hàng ngày cho đến khi hết các triệu chứng.
Trẻ bị còi xương thường bị thiếu canxi nên phụ huynh cần cho trẻ uống thêm canxi để bổ sung. Liều lượng cũng như thời gian dùng thuốc cần tuân theo hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa vì nếu cho uống quá liều trong thời gian dài có thể làm tăng canxi máu, vôi hóa mạch máu dẫn tới sỏi thận.
Khi trẻ bị còi xương cần phải được khám và tư vấn ngay bởi chuyên gia Dinh dưỡng Nhi khoa để chuẩn đoán chính xác cũng như được hướng dẫn điều trị cụ thể, phù hợp. Tuyệt đối tránh việc tự ý dùng thuốc khi chưa có đơn của bác sĩ để tránh gây hại cho sức khỏe trẻ.
8. Biện pháp phòng ngừa bệnh còi xương
Thay đổi chế độ ăn uống cũng như thói quen sinh hoạt là cách đơn giản mà hiệu quả để phòng ngừa bệnh còi xương, cụ thể như sau:
Ngay từ khi mang thai, người mẹ cần thường xuyên tắm nắng để tiếp nhận đủ Vitamin D cho cả mẹ và bé.Phụ nữ mang thai nên tăng cường Vitamin D từ thức ăn như gan cá, cua, trứng, bơ, sữa,... vào chế độ ăn hàng ngày bởi chúng rất giàu Vitamin D.
Bà bầu cần làm việc, nghỉ ngơi hợp lý để tránh bị sinh non. Khi thai được 7 tháng nên uống vitamin D với liều 600.000 đơn vị trong 3 tuần (mỗi tuần 200.000 đơn vị).
Trẻ sau sinh cần được bú ngay và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu.
Tránh cho trẻ ăn dặm quá sớm khi mới được 3- 4 tháng tuổi.Khi trẻ bắt đầu ăn dặm nên cho trẻ ăn uống đủ chất, đặc biệt là cua, cá, trứng, gan, sữa, phô mai, các loại rau xanh,... đảm bảo có dầu ăn hoặc mỡ để tăng hấp thu Vitamin D.
Cho trẻ phơi nắng đều đặn 10- 15 phút mỗi ngày vào buổi sáng: khi da được tiếp xúc với ánh nắng mặt trời thì 7-dehydro cholesterol trong da sẽ chuyển đổi thành vitamin D3.
Trên đây là toàn bộ thông tin liên quan đến bệnh còi xương mà Alo Xét Nghiệm muốn gửi đến các bậc phụ huynh, đây sẽ là những kiến thức quan trọng trong việc nuôi dưỡng con được phát triển toàn diện. Alo Xét Nghiệm cung cấp dịch vụ lấy mẫu xét nghiệm tại nhà và gói xét nghiệm vi chất cho bé, trẻ nhỏ, đảm bảo mang đến sự hài lòng cho quý khách hàng. Liên hệ ngay tới số Hotline 1900 989 993 để được tư vấn và đặt lịch lấy mẫu.